Không những cần thiết, đại biểu Minh còn cho rằng nghị quyết về xử lý nợ xấu cần được ban hành sớm hơn để đảm bảo sự an toàn lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu hồ sơ dự án và đặc biệt nghiên cứu báo cáo đánh giá tác động của nghị quyết, đại biểu Minh cho biết hiện chỉ có đánh giá tác động của từng chính sách mà không thấy có đánh giá tác động tổng thể của việc thực hiện nghị quyết.
“Do vậy, với công cụ đặc biệt mà Quốc hội trao cho là nghị quyết này thì tôi đề nghị Thống đốc cần làm rõ thêm dự kiến về kết quả đạt được khi thực hiện nghị quyết.
Cụ thể là sẽ có bao nhiêu nợ xấu tồn đọng được xử lý, tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm được xuống đến bao nhiêu % trong tổng dư nợ cho vay và đầu tư vào nền kinh tế”, đại biểu Minh đề nghị.
Ngoài ra, đại biểu cũng muốn biết hệ số an toàn vốn CAR của các tổ chức tín dụng ở nước ta sẽ được cải thiện ở mức độ nào sau khi có nghị quyết này.
“Tôi đặt vấn đề này bởi vì trong năm 2016 CAR có suy giảm, chỉ đạt 12,84%, thấp hơn mức 13% của năm 2015. Bên cạnh đó, nếu theo chuẩn mực kế toán của Việt Nam thì CAR cao hơn mức tối thiểu, nhưng nếu tính theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì CAR của chúng ta chỉ đạt khoảng 7,5% so với quy định của Basel là khoảng 8%”, ông Minh cho biết.
Mặt khác, theo ông Minh, mô hình tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào tín dụng ngân hàng, tỷ lệ tín dụng so với GDP tăng liên tục trong nhiều năm qua và ở mức cao hơn so với các nước trong khu vực, gấp đến 3,04 lần so với Indonesia và 2,84 lần so với Philippine.
“Do vậy, nếu hệ thống các tổ chức tín dụng bị rủi ro đổ vỡ hoặc nền kinh tế bị tổn thương thì sẽ có tác động tiêu cực rất lớn đến vế còn lại”, ông Minh nói.
Liên quan đến phạm vi nợ xấu cần xử lý, đại biểu Minh cho biết, dự thảo đưa ra hai phương án, trong đó ohương án 1 quy định việc xử lý được áp dung với mọi khoản nợ xấu trong suốt thời hạn có hiệu lực 5 năm của nghị quyết, kể cả nợ xấu tồn tại cũ cũng như nợ xấu phát mới trong giai đoạn tới đây.
“Tôi thấy phạm vi điều chỉnh như vậy quá rộng, không phù hợp, làm giảm trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong quan hệ tín dụng. Tôi nghĩ không nên vô tình để nghị quyết chúng ta ban hành này thành “lá bùa chống lưng” cho những sai phạm hoặc ít nhất thiếu trách nhiệm trong quan hệ tín dụng trước đây lại tiếp tục có cơ hội để tái diễn”, ông Minh nói.
Trong khi đó, đại biểu Trần Sỹ Thanh cho biết, nếu chúng ta không xác định sẽ xử lý được bao nhiều thì “rất nguy hiểm”.
“Nguy hiểm hơn là hàng vạn cán bộ tín dụng không kiểm soát hết được. Nên tình trạng lợi dụng hay có thể chạy để không nợ xấu thì có thể xảy ra. Lúc đó, chúng ta mất cán bộ, mất tiền thêm, nên tôi đề xuất phương án đảm bảo giải quyết cơ bản 600.000 tỷ về mặt thời gian đó là 31/12/2017”, ông Thanh nói.
“Để đảm bảo thực hiện mục tiêu nêu trên, sau khi nghị quyết được ban hành, Chính phủ sẽ chỉ đạo các cơ quan của Chính phủ, trong đó đặc biệt là Ngân hàng nhà nước thực hiện những biện pháp quyết liệt để triển khai cơ chế, chính sách trong nghị quyết đã cho phép”, ông Hưng cho biết.
Đồng thời, theo ông Hưng, Ngân hàng nhà nước với trách nhiệm của mình sẽ thực hiện đồng bộ các biện pháp đặc biệt là điều hành khuôn khổ chính sách tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt để ổn định kinh tế vĩ mô, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị điều hành của các tổ chức tín dụng.
“Tăng cường năng lực thanh tra giám sát và đảm bảo triệt để tuân thủ kỷ cương pháp luật trong việc thực hiện hoạt động tín dụng trong đó có hoạt động cho vay”, Thống đốc cho biết.
Đặc biệt, theo ông Hưng, Ngân hàng Nhà nước sẽ xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để tổ chức triển khai đề án cơ cấu lại tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu đối với tất cả các tổ chức tín dung trên cơ sở đề án được phê duyệt.
Theo đó, Ngân hàng nhà nước sẽ chỉ đạo trực tiếp từng tổ chức tín dụng xây dựng phương án cơ cấu lại của từng tổ chức, trong đó có phê duyệt nội dung và chỉ tiêu về xử lý nợ xấu, kiểm soát nợ xấu cụ thể từng năm để trình Ngân hàng nhà nước phê duyệt và giám sát.
Cũng theo ông Hưng, để duy trì mục tiêu kiểm soát nợ xấu ở mức dưới 3% tổng nợ xấu cần xử lý trong 6 năm tới là khoảng 640 nghìn tỷ, như vậy bình quân mỗi năm phải xử lý gần 130 nghìn tỷ.